[b]Sản lượng thủy sản (cả khai thác tự nhiên và nuôi trồng) của Braxin tăng 25% trong vòng 8 năm gần đây, từ 990.889 tấn lên 1,24 triệu tấn năm 2009 do tăng sản lượng nội địa và một số loài khai thác biển. Dự báo sản lượng thủy sản năm 2011 của nước này sẽ tăng 15% lên 1,43 triệu tấn.
Với bờ biển dài tiếp giáp Đại Tây Dương, thủy sản là nguồn thực phẩm quan trọng của Braxin, đặc biệt đối với vùng ven bờ. Cả thủy sản khai thác nội địa và thủy sản NK đều dồi dào. Mặc dù năng suất khai thác của ngành thủy sản nội địa cao nhưng sản lượng không đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng nội địa. Braxin là nước NK thủy sản lớn nhất Nam Mỹ với khoảng 688 triệu USD/ năm.
Tiêu thụ thủy sản tại Braxin có sự khác biệt rõ rệt theo từng vùng nhưng nhìn chung vẫn thấp hơn mức trung bình toàn cầu và dưới mức khuyến cáo của Tổ chức Lương thực thế giới - WFO. Tiêu thụ thủy sản ngày càng tăng, thậm chí sẽ tăng mạnh do chính phủ Braxin đẩy mạnh xúc tiến thông tin/ thị trường. Từ năm 2003 – 2009, tiêu thụ thủy sản của Braxin tăng 5,7% về khối lượng, riêng năm 2008 tăng 6% và là mặt hàng thực phẩm tươi tăng mạnh nhất trong thời gian qua. Chi tiêu cho thủy sản của người tiêu dùng nước này tăng 57,6% từ năm 2000 – 2009.
Thực trạng và triển vọng
Trong 8 năm qua, sản lượng thủy sản của Braxin tăng 25% từ 990.889 tấn lên 1,24 triệu tấn năm 2009, trong đó thủy sản khai thác tự nhiên đạt 825.160 tấn (chiếm 66,5%) và thủy sản nuôi đạt 415.640 tấn (chiếm 33,5%). Sản lượng nuôi trồng thủy sản nội địa năm 2009 tăng 20% so với năm 2008 và có xu hướng tiếp tục tăng, trong khi nuôi trồng thủy sản biển lại giảm 6% do giá của thế giới giảm khiến một số sản phẩm không thể cạnh tranh trên thị trường.
Thủy sản được khai thác chủ yếu tại vùng Đông Bắc với 411.000 tấn, tiếp đến là vùng phía Nam với 316.000 tấn và vùng phía Bắc 263.000 tấn.
Cá rô phi là loài thủy sản nuôi quan trọng nhất của Braxin. Năm 2009, sản lượng cá rôphi đạt 132.000 tấn, chiếm 39%; tiếp đến cá heo sọc (tambaqui) 46.500 tấn.
Sản xuất
Tôm
Năm 2009, sản lượng tôm đạt 65.189 tấn, tăng 7% so với năm 2008. Sau khi đạt mức kỷ lục 90.000 tấn hồi đầu thập kỷ, sản lượng tôm của Braxin bị sụt giảm do thuế chống bán phá giá của Mỹ năm 2004. Điều này khiến các nhà sản xuất tập trung vào thị trường nội địa. Từ năm 2005 – 2009, sản lượng tôm trung bình đạt 65.000 tấn.
Ngành tôm Braxin phụ thuộc chủ yếu vào XK, tuy nhiên đồng nội tệ mạnh cùng với những hạn chế từ các thị trường Mỹ và EU đã và đang tác động xấu đến XK tôm của Braxin. Năm 2010, các nhà sản xuất tôm quay trở lại thị trường EU và chính phủ Braxin không ngừng đẩy mạnh tìm kiếm thị trường XK cho mặt hàng này. Dự kiến sản lượng tôm năm 2010 sẽ tăng nhẹ do nhu cầu nội địa cao.
Gần 90% sản lượng tôm được khai thác tại vùng Đông Bắc, tập trung chủ yếu ở Rio Grande do Norte và Ceará là 2 nơi sản xuất tôm hàng đầu trong vùng. Braxin hiện có khoảng 1.000 nhà sản xuất tôm nuôi (phần lớn hoạt động theo quy mô vừa và nhỏ) và gần 50 trung tâm chế biến với công suất 925 tấn tôm/ngày và khả năng dự trữ 15.925 tấn.
Tôm hùm
Khai thác tôm hùm tập trung chủ yếu tại bang Ceara, chiếm 79% sản lượng của cả nước. Sản lượng tôm hùm của bang tăng 45% từ 2.186 tấn năm 2007 lên khoảng 4.000 tấn năm 2009. Tổng sản lượng tôm hùm của cả nước ước tính tăng 6% từ năm 2008 lên khoảng 7.170 tấn năm 2009 và dự kiến tăng 2% năm 2010. Giá tôm hùm trên thị trường thế giới giảm từ 57 USD/kg xuống còn 20 USD/kg do khủng khoảng tài chính toàn cầu, những mối quan ngại về môi trường, chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm… đã gây bất lợi cho các nhà sản xuất.
Để tránh tình trạng khai thác bất hợp pháp, Cơ quan Bảo vệ Môi trường Braxin (IBAMA) đã tăng số thanh tra viên để bảo vệ các vùng khai thác tôm hùm. Theo IBAMA, cỡ tôm hùm tối thiểu khai thác là khoảng 13cm. Ngoài ra, IBAMA cũng rút ngắn vụ khai thác năm 2009 bằng cách tăng thời gian cấm khai thác tôm hùm từ tháng 12 đến tháng 5. Trong những năm trước, thời gian cấm từ tháng 1 đến tháng 4 là mùa sinh sản của tôm hùm.
Bộ Nông nghiệp Braxin cũng đang nghiên cứu các biện pháp và thủ tục để hỗ trợ các nhà sản xuất bắt đầu XK tôm hùm sống sang Châu Âu nhằm tăng giá trị cho sản phẩm và đẩy mạnh sản xuất.
Cá trích
Sản lượng khai thác cá trích của Braxin năm 2009 đạt 85.286 tấn, tăng 14% so với 74.630 tấn năm 2008. Thời gian khai thác cá trích kéo dài từ ngày 15/2 đến ngày 15/5 và từ ngày 1/8 đến ngày 1/11.
Dự báo sản lượng khai thác cá trích năm 2010 giảm nhẹ còn 80.000 tấn do ngư dân ngừng khai thác trong quý I. Vì vậy, Braxin đã tăng NK cá trích đóng hộp trong 6 tháng đầu năm 2010.
Để đối phó với việc tăng NK cá trích, trong quý I/2010, chính phủ Braxin đã tăng thuế NK cá trích đóng hộp từ 16% lên 23%. Năm 2008, NK cá trích đóng hộp đạt 100.072 tấn và năm 2009 đạt 114.022 tấn.
Tiêu thụ
Theo nghiên cứu tiêu thụ thủy sản mới đây của Bộ Khai thác và Nuôi trồng thủy sản Braxin, tiêu thụ thủy sản bình quân theo đầu người hàng năm của nước này khoảng 9,03 kg/người. Tiêu thụ thủy sản bình quân theo đầu người năm 2003 đạt 6,46 kg/người, tăng 49,8% trong vòng 7 năm. Tuy nhiên mức tiêu thụ này vẫn dưới mức khuyến cáo của FAO (12 kg/người).
Do chi tiêu cho thực phẩm của người tiêu dùng tăng nên ngành bán lẻ tại Braxin ngày càng phát triển mạnh. Doanh thu bán lẻ tăng 10,5% từ năm 2007 đến năm 2009. Trong giai đoạn suy thoái nhẹ tại Braxin, doanh thu bán lẻ đã nhanh chóng tăng trở lại và tăng mạnh hơn dự kiến, nhất là với các sản phẩm đáp ứng nhu cầu tăng của những người có thu nhập thấp.
Quá trình đô thị hoá và sự biến động dân số cũng khiến nhu cầu đối với các sản phẩm tiện lợi tăng. Thực phẩm Châu Á (gồm cả sushi) ngày càng được ưa chuộng tại Braxin.
Thương mại
Năm 2009, có đến 96% sản lượng thuỷ sản nội địa được tiêu thụ trong nước và chỉ có 4% được XK. Các nước NK chính là Mỹ, Pháp, Tây Ban Nha, Nhật Bản và Anh. XK giảm phần lớn do khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Từ năm 2006 – 2009, tiêu thụ các sản phẩm nội địa và NK của Braxin ổn định (thuỷ sản nội địa chiếm 70% và NK 30%).
Trong 2 năm liên tiếp, Braxin vẫn là nước NK ròng thủy sản. Năm 2009, NK thủy sản của nước này đạt 688 triệu USD, XK đạt 162 triệu USD, giảm gần 31% so với năm 2008 do đồng nội tệ tăng đã tác động có lợi đến NK cá trích, cá nhám gai, cá hồi và cá tuyết, cũng như đến sự suy giảm của XK tôm.
Cá trích là mặt hàng NK chính của Braxin, tiếp đến cá nhám gai, cá hồi và cá tuyết Pêru. Năm 2009, NK cá trích đạt 31.624 tấn, trị giá 29 triệu USD. Marôc là nước cung cấp chính cá trích cho Braxin với 90%, tiếp đến Mỹ 4%. NK cá nhám gai đạt 21.193 tấn, tăng 19% so với năm 2008. NK cá hồi đạt 12.571 tấn, tăng 76%. Chilê là nước chủ yếu cung cấp cá hồi cho Braxin (80%) do thuế NK của Khối Thị trường chung Nam Mỹ (Mercosur) giảm. NK một số loài khác như cá tuyết Pêru (phần lớn từ Achentina) và cá tuyết tăng do đồng nội tệ và thu nhập tăng.
Mặc dù chính phủ Braxin đang đầu tư vào các phương pháp và công nghệ mới để sản xuất tôm hùm nhưng giá tôm hùm trên thị trường thế giới năm 2009 vẫn giảm, gây bất lợi cho các nhà XK. Mỹ là thị trường NK chính tôm hùm Braxin với 88%.
Năm 2009, XK tôm của Braxin giảm 59% về khối lượng xuống còn 6.421 tấn, và gần 52% về giá trị xuống còn 74 triệu USD. EU đã vượt qua Mỹ và trở thành thị trường NK chính tôm của Braxin. Ba năm vừa qua là thời điểm khó khăn của các nhà XK tôm Braxin.
Chính sách
Một số luật và nghị định cần quan tâm liên quan đến ngành thủy sản Braxin:
- Nghị định số 221 ngày 28/02/1967 thiết lập mã thủy sản;
- Luật số 6.938 ngày 31/08/1981 quy định Chính sách môi trường quốc gia;
- Nghị định số 96.000 ngày 02/05/1988 thiết lập các quy định về nghiên cứu và điều tra khoa học đối với thềm lục địa và tại các vùng nước chủ quyền của Braxin;
- Luật số 7.661 ngày 16/05/1988 quy định Kế hoạch quốc gia về quản lý khu vực ven bờ;
- Luật số 8.617 ngày 04/01/1993 quy định Vùng lãnh hải và Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ); và
- Luật số 9.433 ngày 08/01/1997 quy định Chính sách quốc gia đối với nguồn lợi nước.
- Luật số 11.958 ngày 29/06/2009 thành lập Bộ Khai thác và Nuôi trồng thủy sản
- Luật số 11.959-09 ngày 29/06/2009 cập nhật mã thuỷ sản.
XK tôm của Braxin, năm 2008 - 2009
Thị trường Thủy sản Braxin năm 2009 Thitruongthuysan